*** TU THÂN, TỀ GIA, TRỊ QUỐC, BÌNH THIÊN HẠ *** CÔNG KHAI THẢO LUẬN, ÂM THẦM HÀNH ĐỘNG *** Đã đến lúc tòan dân Việt hãy muôn lòng như một quyết chí đấu tranh cho QUYỀN DẠ DÀY, QUYỀN LÀM NGƯỜI, QUYỀN TỰ QUYẾT bằng cách ngay lúc này phải GIẢI THỂ TẬP ĐÒAN VIỆT GIAN CỘNG SẢN BUÔN DÂN BÁN NƯỚC!!!

2013/02/06

Chuyển Động Ngoại Giao Dồn Dập ở Đông Nam Á

Đào Văn Bình


Thế giới mà chúng ta đang sống phát triển bởi tham-dục và hủy diệt bởi tham-dục, không đứng yên một chỗ mà luôn luôn biến đổi. Theo Dịch Lý của Đông Phương sự thay đổi đó vận hành theo nguyên lý: Thái Cực sinh Lưỡng Nghi; Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng; Tứ Tượng Sinh Bát Quái và Bát Quái sinh… Tùm Lum. Khi cái "Tùm Lum" ra đời thì thiên hạ đại loạn. Lúc đó thế nào cũng có một quốc gia mới nổi lên, gồm thâu thiên hạ và chu kỳ Thái Cực lại bắt đầu.

Kể từ khi Liên Bang Xô-viết xụp đổ vào năm 1991, Hoa Kỳ nghiễm nhiên trở  thành siêu cường "Độc Cô Cầu Bại" thế Lưỡng Cực tan biến và thế giới hình hành thế Thái Cực hay Đơn Cực. Mỹ giống như thiên tử nhà Chu cách đây khoảng 1000 năm trước Tây Lịch, bá chủ thiên hạ, chư hầu răm rắp tuân lệnh. Thế nhưng theo lẽ tự nhiên của trời đất, con cháu nhà Chu do bất tài, nhu nhược hoặc hoang dâm vô độ, nhà Chu dần dần suy yếu. Khi thiên tử suy yếu - bây giờ gọi là suy thoái, chư hầu lợi dụng xưng Bá, thôn tính các nước nhỏ, kéo theo một thời kỳ chiến tranh kéo dài hơn 200 năm, từ năm 403 trước Tây Lịch gọi là Xuân Thu Chiến Quốc và chấm dứt vào năm 221 trước Tây Lịch khi Tần Thủy Hoàng gồm thâu lục quốc chấm dứt  thế loạn " Tùm Lum". Dĩ nhiên trong 200 năm đó, thiên hạ điêu linh, dân tình khốn khổ, " đống xương vô định đã cao bằng đầu". Thế nhưng bao nhiêu học thuyết về ngoại giao, chính trị, quân sự, kể cả những chiến lược mà nước nhỏ dùng để giữ nước, các gương sáng ngời về lòng yêu nước như Phạm Lãi của nước Việt, các thiên tài ngoại giao, quân sự, trị quốc như Quản Trọng, Tô Tần, Trương Nghi, Nhạc Nghị và tư tưởng như "Bách Gia Chư Tử" cũng đều sản sinh trong thời kỳ này. Các nhân vật gần như  huyền thoại đó vẫn sống mãi trong tâm tưởng mọi người và các học thuyết đó vẫn còn là kim chỉ nam cho chính sách ngoại giao, quân sự, trị quốc cho nhân loại ngày hôm nay.

Vào năm 1972, do nhu cầu chia rẽ Khối Cộng Sản và làm suy yếu Liên Bang Xô-viết, cặp bài trùng Nixon- Kissinger đã  "chơi con bài Hoa Lục" bằng cách đá người đàn em chống cộng lừng lẫy là Tưởng Giới Thạch ra khỏi Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc và rước Mao Trạch Đông ngồi vào đó, kể cả việc làm ngơ để Hoa Lục cưỡng chiếm Quần Đảo Hoàng Sa của Việt Nam để chứng tỏ "thành tâm thiện chí" với ông bạn mới. Khác với Mao Trạch Đông còn do dự và "bế quan tỏa cảng", Ô. Đặng Tiểu Bình nhìn xa trông rộng, tương kế tựu kế, theo kế sách "nhập nô xuất chủ". Năm 1979 ông qua Mỹ để bình thường hóa ngoại giao với Hoa Kỳ và "mở tung cánh cửa". Thế giới, nhất là Hoa Kỳ khen ngợi Ô. Đặng Tiểu Bình hết mình. Tiếp theo đó tư bản Mỹ, kỹ thuật Mỹ, công ty Mỹ ào ào đổ vào để khai thác tài nguyên thiên nhiên, biến khối 1.3 tỉ người thành thị trường công nhân rẻ mạt chế hàng cho Mỹ, vừa làm giàu cho chính quốc vừa đem về cho dân Mỹ xài chơi cho sướng. Ước mơ của Hoa Kỳ và Tây Phương kể như thành tựu. Liên Xô xụp đổ, Hoa Lục "gia nhập cộng đồng thế giới" rồi đây thiên hạ thái bình, còn lo gì nữa? Ô. Bill Clinton là người sung sướng nhất, được hưởng cái khoái cảm "Bốn phương phẳng lặng, hai kinh vững vàng". Giống như Ngô Phù Sai năm xưa ngất ngưởng với Tây Thi ở Cô Tô Đài, ông "tình tứ" với Cô Monica Lewinsky ngay tại Phòng Bầu Dục - nơi ban bố những quyết định liên quan đến vận mệnh của thế giới. Còn Ô. Bush Con tự coi mình là "võ lâm chí tôn"  không cần mạng lệnh của Liên Hiệp Quốc, với Anh Quốc, sau này thêm NATO đem quân vào Iraq và Afghanistan và như thế lao vào hai cuộc chiến vô cùng tốn kém về nhân mạng và của cải, kéo dài đã hơn 12 năm mà Ô. Obama gỡ chưa ra. Nước Mỹ đâu có ngờ trong khi Hoa Kỳ tự thị (dưới thời Ô. Clinton), sa lầy trong hai cuộc chiến (dưới thời Ô. Bush Con), Đặng Tiểu Bình và các người kế vị là Giang Trạch Dân, Hồ Cẩm Đào đã âm thầm luyện thành công môn "Hấp Tinh Đại Pháp". Cái độc địa của môn võ công này là thu hết nội lực của đối phương để biến thành nội lực của chính mình, đến một lúc nào đó đối thủ bủn rủn cả chân tay rồi thành phế nhân. Hàng Made in China rẻ rề được các công ty bán lẻ khổng lồ của Mỹ như Wal Mart, Target, Best Buy, Costco v.v… đem về bán cho dân xài lại khiến công ty Mỹ phá sản. Dân Mỹ có thói quen thấy hàng rẻ thì ùn ùn kéo đến mua, nhiều khi dẫm đạp lên nhau mà chết - chẳng hạn như trong ngày Black Friday, không kể tự ái dân tộc hay quyền lợi quốc gia gì cả. Trong khi họ than thiền về nạn thất nghiệp nhưng lại không biết đâu là nguyên do của thất nghiệp. Ông Tàu chứ còn ai nữa? Thế cho nên một số nhà bình luận nói rằng "Kẻ thù của nước Mỹ chính là tư bản Mỹ". Hiện nay giới tư bản Mỹ chỉ chiếm 1% nhưng thâu tóm 90% tài sản đất nước.

Hệ thống truyền thông Mỹ, phim ảnh Mỹ, chính trị gia Mỹ lúc nào cũng nhồi vào đầu óc người dân, "Mỹ Number One", "Mỹ lãnh đạo thế giới".  Chuyện hàng Made in China có tràn ngập thị trường Mỹ chỉ là "ba cái lẻ tẻ", nhằm nhò gì, "think tank" của Mỹ tính hết cả rồi. Lợi dụng quan hệ hợp tác chiến lược với Mỹ, Hoa Lục học hỏi, kể cả ăn cắp lẫn sao chép siêu kỹ thuật để chế tạo vũ khí hiện đại xuất cảng và chống Mỹ. Tiền lời bán vũ khí, tiền lời bán hàng do công ty Mỹ sản xuất tại Hoa Lục đem cho Hoa Kỳ vay, rồi mua công khố phiếu rồi trở thành chủ nợ của Hoa Kỳ. Thật trớ trêu! Sách lược vĩ đại hay "diệu kế" của Nixon-Kissinger 40 năm sau trở thành"Con Ngựa Thành Troie"!

Vào đầu thập niên 1990 khi Hoa Lục đã xây dựng xong hệ thống quân sự khổng lồ tại Đảo Hải Nam, trên biển cũng như dưới lòng đất, Hoa Kỳ vẫn còn đắm chìm trong "giấc mơ vàng" hợp tác chiến lược với Tàu. Lúc đó nếu có nhà bình luận nào nói rằng Hoa Lục sẽ là đối thủ hoặc xa hơn là kẻ thù của Hoa Kỳ thì lập tức bị gán cho nhãn hiệu bảo thủ và thiển cận. Chỉ tới năm 2009 khi Hoa Lục trình Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc tấm bản đồ Đường Lưỡi Bò gom hết Biển Đông vào lãnh thổ của mình thì Hoa Kỳ mới giật mình, hối hả rút quân khỏi Iraq, Afghanistan trong kế hoạch gọi là  "Xoay Trục", tức tái phối trí lực lượng tại nơi mà Hoa Kỳ đã bỏ lại khi tháo chạy khỏi Việt Nam năm 1975.

            Để đối phó với kế hoạch "Xoay Trục" của Mỹ, về mặt ngoại giao Hoa Lục tung tiền "mua" Thái Lan, Kampuchea, trung lập hóa Miến Điện khiến khối ASEAN rạn nứt. Về mặt quân sự cho tàu hải giám, tàu ngư chính tiếp tục uy hiếp Việt Nam, Phi Luật Tân trên biển. Hành động nguy hiểm nhất của Hoa Lục mà cả thế giới đều thấy rõ là biến Hoàng Sa (ngụy danh Tam Sa)  thành bộ chỉ huy quân sự kiểm soát Biển Đông, ban bố lệnh kiểm tra, lục soát các tàu qua lại trên vùng biển này, cho in bản đồ có hình Lưỡi Bò trên sổ xuât cảnh, công bố bản đồ trong đó toàn bộ Biển Đông khoanh vùng bởi Đường Lưỡi Bò thuộc lãnh thổ của Trung Quốc, đồng thời mở mặt trận thứ hai tại Biển Hoa Đông, uy hiếp Nhật Bản. Phong trào bài Nhật mới đầu tưởng chỉ là thủ đoạn hù dọa nay trở thành "vũ khí kinh tế" chống Nhật và chiến tranh Trung-Nhật có nguy cơ bùng nổ. Nhật sợ quá vội vã lên kế hoạch phòng thủ và cũng "xoay trục" như Mỹ. Trong cuộc phỏng vấn với tờ New York Times trước khi từ nhiệm, Bà Hilary Clinton nói rằng Trung Quốc thật sự tạo ra một mối lo (cho Hoa Kỳ và thế giới). Một siêu cường như Hoa Kỳ, giống như thiên tử Nhà Chu mà phải "lo ngại" sức mạnh của Hoa Lục thì đó không phải là chuyện đùa rỡn.

                Sự "xoay trục" của Nhật giống như Liên Minh Lục Quốc chống Tần năm xưa. Các chiến lược gia Nhật Bản nhận thấy việc đối đầu với Hoa Lục là chuyện dài "ngàn năm" cho đến khi nào Hoa Lục thay đối chính sách và dù có thay đổi chính sách thì Hoa Lục vẫn chơi lá bài "nước lớn" tức "kẻ cả". Dù liên minh Mỹ-Nhật có đó  nhưng nó chưa đủ sức để chống Tàu. Nếu Hoa Lục khống chế được Đông Nam Á, chắc chắn Nhật Bản phải đầu hàng hoặc liên minh với Mỹ để mở cuộc chiến tranh tổng lực để tìm sinh lộ. Kế sách tối hảo vừa lợi vừa ít gây tổn hại cho Nhật là liên kết với Đông Nam Á và làm cho các nước này mạnh lên. Khi họ mạnh lên về quân sự và kinh tế, với tinh thần độc lập tự chủ, chính Đông Nam Á sẽ là "ràng rào tự nhiên" ngăn chặn Hoa Lục. Hoa Kỳ, Liên Hiệp Âu Châu, Úc Châu, Ấn Độ và cả thế giới thấy rõ điều này.

            Về chiến lược ngăn chặn Trung Quốc - nói Đông Nam Á là nói về "diện" còn "trọng điểm" chính là Việt Nam chứ không phải Phi Luật Tân. Chỉ cần mất phần còn lại của Trường Sa, dù Phi Luật Tân còn đó, Đông Nam Á coi như thuộc về Hoa Lục. Lúc đó Hoa Kỳ phải lui về cố thủ ở Guam và như thế chiến tranh đã sát nách lãnh thổ Hoa Kỳ, đó là cơn ác mộng của Ngũ Giác Đài. Chính vì thế mà chỉ hơn tháng vừa qua, người ta đã chứng kiến những chuyển động ngoại giao dồn dập đổ về Đông Nam Á:

-Ngày 10/1/2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Ý Đại Lợi thăm và hội đàm với Tướng Phùng Quang Thanh. Hai bên cam kết hợp tác trong lãnh vực đóng tàu, đào tạo và tiếp đón sĩ quan Việt Nam tu nghiệp tại Ý.

-Ngày 6/1/2013  Tân Bộ Trưởng Nhật Ô. Fumio Kishida họp với Ngoại Trưởng Phi Luật Tân trong chuyến công du đầu tiên bàn về hợp tác an ninh hàng hải trên Biển Đông và cung cấp cho Phi 10 tàu tuần duyên.

-Ngày 15/1/2013 Phó Tổng Thống Ấn Độ Hamid Ansari thăm Việt Nam đồng thời kết thúc Lễ Kỷ Niệm Năm Hữu Nghị Ấn-Việt. Cuộc viếng thăm cho thấy Ấn Độ muốn thắt chặt thêm quan hệ ngoại giao với Việt Nam.

-Ngày 16/1/2013 Chủ Tịch Quốc Hội Nam Hàn thăm Việt Nam. Theo thống kê trong nước, cho tới ngày hôm nay, Hàn Quốc là nhà tài trợ cho Việt Nam chỉ đứng thứ hai sau Nhật Bản.

-Ngày 16/1/2013 Thủ Tướng Nhật Bản  Shinzo Abe chọn Việt Nam để thực hiện chuyến công du đầu tiên khi ông vừa nhậm chức chưa đầy một tháng, tình hình trong nước vẫn còn bề bộn, Senkaku vẫn sôi động. Chuyến viếng thăm Việt Nam của Ô. Abe tập trung vào viện trợ và an ninh Biển Đông. Còn chuyến viếng thăm Thái Lan và Nam Dương sau đó chỉ tập trung vào thương mại, đầu tư. Tưởng nên nhắc lại đây, vào ngày 29/12/2012 ngay khi được tin Ô. Abe được chọn làm thủ tướng, Ô. Nguyễn Tấn Dũng- Thủ Tướng Việt Nam đã gọi điện thoại chúc mừng và đàm đạo điều này cho thấy Việt Nam đánh giá cao quan hệ hợp tác chiến lược với Nhật và nhất là lập trường cương quyết không tương nhượng Hoa Lục trong cuộc đối đầu tại Senkaku của Ô. Abe. Nhân định về chuyến viếng của Ô. Abe, Báo điện tử Người Lao Đông viết như sau, "Việc Thủ tướng Shinzo Abe chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tiên trong chuyến công du đã thu hút nhiều sự quan tâm của dư luận quốc tế. Đài BBC dẫn lời giáo sư Carl Thayer, chuyên gia về khu vực châu Á - Thái Bình Dương, cho rằng trong tất cả các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam có lẽ là nước có quan hệ an ninh thân cận nhất với Nhật Bản. Trong tám đối tác chiến lược đã được thiết lập của Việt Nam thì Nhật Bản đứng thứ hai chỉ sau Nga. Ngoài ra, Nhật Bản là nước tài trợ ODA  (Official Development Assistance) lớn nhất của Việt Nam, nhà đầu tư Số 1 tại Việt Nam và là đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam".

-Cũng trong thời gian này, BBC tiếng Việt đưa tin, " Trong lúc tân thủ tướng Nhật Bản, ông Shinzo Abe chuẩn bị cho chuyến thăm Đông Nam Á, bắt đầu bằng Việt Nam tuần này, Hoa Kỳ cũng gửi một phái đoàn quân sự và an ninh cao cấp sang Đông Bắc Á trong mối lo ngại về tình hình khu vực. Cùng lúc, khối ASEAN tiếp tục đề cao quy tắc ứng xử cho khu vực Biển Đông và tiếp tục đối thoại với Trung Quốc. Chuyến thăm của các quan chức Mỹ, gồm Thứ trưởng Ngoại giao Kurt Campbell và Thứ trưởng Quốc phòng Mark Lippert cùng giám đốc châu Á trong Hội đồng An ninh Quốc gia Daniel Russell sang Tokyo và Seoul là để bàn với tân nữ tổng thống Hàn Quốc và tân thủ tướng Nhật Bản về an ninh vùng."

-Ngày 17/1/2013 Ô. Nguyễn Phú Trọng-Tổng Bí Thư Đảng CSVN lên đường thăm Vương Quốc Bỉ, Liên Hiệp Âu Châu, hội kiến với Thủ Tướng Ý Đại Lợi và sau đó thăm Anh Quốc hội kiến với Thủ Tướng Cameron. Theo báo chí trong nước, tại Bỉ, hai bên đã nhất trí tăng cường hợp tác trao đổi thương mại và đầu tư trong các lĩnh vực Bỉ có thế mạnh như phát triển hải cảng, tiếp vận, giao thông vận tải, công nghệ xanh, công nghệ cao, kỹ nghệ hàng không- không gian, công nghiệp nặng y tế. Ô. Nguyễn Phú Trọng cũng đã chứng kiến lễ ký một số văn kiện hợp tác Việt-Bỉ, như hỗ trợ ứng phó biến đổi khí hậu, mở rộng khu công nghiệp và Hải Cảng Vũ Đình (Hải Phòng), hợp tác giữa Việt Nam với vùng Flanders. Tại Ý Ô. Nguyễn Phú Trọng đã hội kiến với Thủ Tướng Monti. Hai bên đã ra  Tuyên Bố Chung thiết lập quan hệ đối tác chiến lược, Bản Ghi Nhớ giữa hai Bộ Quốc Phòng; Bản Ghi Nhớ về hợp tác và tương trợ hành chính trong lĩnh vực quan thuế; Bản Ghi Nhớ về hợp tác giữa Tập Đoàn Dầu Khí Việt Nam và Tập Đoàn Dầu Khí Italia; Trao giấy chứng nhận đầu tư thăm dò, khai thác dầu khí cho Tập Đoàn Dầu Khí Italia các Lô 114, lô 120 và lô 105-110/04 ngoài khơi Quảng Bình, Hà Tĩnh và Quảng Nam. Tại Anh Quốc, Thủ Tướng Cameron và Ô. Nguyễn Phú Trọng đã thảo luận và nhất trí về các biện pháp nhằm thúc đẩy hơn nữa quan hệ hợp tác giữa hai nước, nhất là trên các lĩnh vực thương mại, hàng hải, tài chính ngân hàng, giáo dục… phấn đấu đưa kim ngạch thương mại hai nước lên 4 tỷ USD trong năm nay. Anh Quốc cũng mong muốn Việt Nam đóng vai trò mạnh mẽ và xây dựng hơn trong khu vực cũng như trên thế giới và Anh Quốc sẽ hỗ trợ Việt Nam hoàn thành trách nhiệm này giống như lời tuyên bố của Ô. Panetta - Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ trước đây. Do đó người ta dự đoán có thể quân đội Việt Nam sẽ tham gia lực lượng LHQ gìn giữ hòa bình trong tương lai. Dù đề tài nhân quyền được nêu ra tại Nghị Viện Anh, việc Âu Châu nồng nhiệt tiếp đón Ô. Nguyễn Phú Trọng – đã đi cùng nhịp với lời kêu gọi "Âu Châu cũng phải tăng cường hợp tác với Mỹ để bảo đảm ổn định tại khu vực Châu Á - Thái Bình Dương và đây cũng là lợi ích của Châu Âu" (RFI) của Phó Tổng Thống Joe Biden trong Hội Nghị An Ninh Munich ngày 2/2/2013.

-Ngày 18/1/2013 Bà Cristina - nữ Tổng Thống Argentina thăm Việt Nam. Cuộc thăm viếng chỉ giới hạn trong khuôn khổ thương mại, đầu tư và liên kết ngoại giao.

-Ngày 23/1/2013 tại Nam Vang, Phó Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Đội Trung Quốc, Tướng Thích Kiến Quốc, ký một thỏa thuận giúp huấn luyện lực lượng vũ trang Campuchea với Bộ Trưởng Quốc Phòng Tea Banh, đồng thời bàn giao 12 chiếc trực thăng đa năng Zhi-9 do Trung Quốc sản xuất trong đó có 4 trực thăng chiến đấu. Kampuchea đã dùng khoản viện trợ 195 triệu đô-la từ Trung Quốc để mua số trực thăng vũ trang này. Cũng có tin Trung Quốc cho không để lôi kéo Kampuchea vào quỹ đạo của mình. Cộng thêm với việc mua sắm 100 xe tăng, 40 xe bọc thép mới đây, những chuyển động về mặt quân sự của Kamphuchea đã khiến Thái Lan lo ngại. Xong Việt Nam cũng phải dè chừng Trung Quốc lại chơi "lá bài Khờ Me Đỏ" để thọc vào biên giới  phía nam Việt Nam.

-Ngày 4/2/2013 nhân dịp tham dự lễ hỏa thiêu Cựu Hoàng Norodom Sihanouk tại Nam Vang, Ô. Nguyễn Tấn Dũng đã có cuộc hội đàm với Thủ Tướng Pháp Jean Marc Ayrault. Ô. Nguyễn Tấn Dũng khẳng định Việt Nam luôn coi trọng phát triển mối quan hệ hữu nghị truyền thống tốt đẹp với Pháp, một đối tác ưu tiên của Việt Nam tại châu Âu.

-Trong khi những chuyển động ngoại giao tập trung vào Việt Nam và Phi Luật Tân như thế thì vào ngày 4/2/2013 BBC đưa tin,  "Tân Hoa Xã cho hay ba khu trục hạm đã rời Cảng Thanh Đảo ở phía đông tỉnh Sơn Đông hôm thứ Ba 29/1 để tham gia các hoạt động tập trận ở Nam Hải (Biển Đông) và Tây Thái Bình Dương. Hãng tin nhà nước Trung Quốc cho biết thêm rằng các hoạt động trên sẽ diễn ra ở Hoàng Hải, Biển Hoa Đông, Biển Đông, Eo Biển Miyako, Kênh Bashi và vùng biển phía đông Đài Loan." điều đó cho thấy lò lửa Đông Nam Á đang âm ỉ lại mỗi lúc được đổ thêm dầu. Cả thế giới đang căng thẳng chờ đợi một biến cố có tầm vóc "thể kỷ" chưa biết nổ ra lúc nào. Quốc Hội Mỹ chưa bao giờ phải họp để bàn tới "Vấn Đề Trung Quốc" nay trong cuộc điều trần để chuẩn nhận tân ngoại trưởng, Ô. John Kerry đã phải xác định sách ngoại giao của Hoa Kỳ trong những ngày tháng tới như sau " Tiếp tục tái cân bằng và củng cố quan hệ với Trung Quốc cũng như tiếp tục thực hiện chính sách "xoay trục" sang Châu Á Thái Bình Dương."

Trong bối cảnh "Xuân Thu Chiến Quốc" ngày hôm nay - Việt Nam, do rất nhiều yếu tố như: địa lý chính trị, lịch sử và trật tự thế giới mới, đã chủ trương hợp tác cũng như hợp tác chiến lược với tất cả các quốc gia trên thế giới nhưng "không liên minh với ai để chống ai" khác hẳn với Phi Luật Tân. Phi Luât Tân, do truyền thống và lịch sử đã vạch một chiến tuyến rõ ràng, nương tựa vào sức mạnh Hoa Kỳ là chính và không cần hợp tác chiến lược với Nga, Ấn Độ, Úc, Âu Châu. Trong khi Phi Luật Tân có "trụ Mỹ" để bám, còn Việt Nam thì "không bám" vào trụ nào. Chính vì thế mà một số người cho rằng Việt Nam đã "Lăng Ba Vi Bộ" tức chính sách ngoại giao và quốc phòng chênh vênh, không rõ ràng. Thế nhưng theo Wikipedia tiếng Việt, "Lăng Ba Vi Bộ là cách di chuyển bộ cước tạo ra một ảnh ảo khiến đối phương chỉ tấn công vào ảnh ảo, nên đương sự luôn dễ dàng thoát hiểm." Đoàn Dự trong Lục Mạch Thần Kiếm nhờ học được bí kíp này mà sống sót. "Lăng Ba Vi Bộ" trong sách lược ngoại giao chính là thế ngoại giao "động". Vì chuyển động giống như "đu dây" nên "ảo", vì ảo nên "thấy vậy mà không phải vậy". Nõi rõ hơn ""Lăng Ba Vi Bộ" là liên kết với nhiều nước khiến kẻ thù phân tâm vì phải đối phó với nhiều mặt trận - giống như đứng giữa nhìn chiếc đèn cù chạy chung quanh mình. Thực tế, nhìn vào chính trường quốc tế bây giờ, các nước lớn cũng thi triển bí kíp "Lăng Ba Vi Bộ". Hoa Kỳ buổi sáng bay qua Bắc Kinh họp "hợp tác chiến lược" với Hoa Lục, buổi tối quay về Ngũ Giác Đài bàn kế hoạch "xoay trục" hợp tác chiến lược với Úc Châu, Nhật Bản, Ấn Độ, nay thêm Âu Châu để "đốn ngã" ông bạn "hợp tác chiến lược" của mình. Nhật Bản vẫn coi mối quan hệ với Trung Quốc là trọng yếu nhưng liên kết với Hoa Kỳ, Anh Quốc, Ấn Độ và ngày nay với Việt Nam, Phi Luật Tân để đối phó với Trung Quốc. Ấn Độ cũng hợp tác chiến lược với Hoa Lục nhưng hối hả liên minh với Hoa Kỳ, Nhật Bản và Việt Nam để ngăn ông "Con Trời". Còn Âu Châu, tuy nương tựa vào Hoa Lục để tồn tại kinh tế, cũng bắt đầu nhòm ngó xuống Đông Nam Á để tiếp tay với Hoa Kỳ trong kế hoạch "xoay trục". Còn Thái Lan thì "sớm nắng chiều mưa", "Lăng Ba Vi Bộ" còn hơn Việt Nam nữa, vừa đưa Ô. Obama cửa trước đã rước Ô. Ôn Gia Bảo cửa sau. Tất cả đều tung hỏa mù, để tạo ra một "không gian ảo" nói khác đi một "mê hồn trận" để tự vệ, để sinh tồn, để bao vây hoặc đánh lừa đối thủ.

Khi một nước lớn nuôi tham vọng bất chính, chẳng hạn như nước Tần năm xưa thì thiên hạ đại loạn. Ngày nay các cường quốc đang tìm cách ngăn chặn một thứ "Tần Thủy Hoàng mới" bằng chiến lược ngoại giao giống như Thời Xuân Thu Chiến Quốc. Chuyện Hoa Lục "trỗi dậy" không một ai cản được mà chỉ là làm sao ngăn chặn những hậu quả thảm khốc của nó - trước mắt cho Đông Nam Á rồi cho cả thế giới. Những biến chuyển ngoại giao và quân sự dồn dập trong thời gian qua chỉ phản ảnh cái thế loạn "Tùm Lum". Phải chăng đây là chu kỳ biến dịch của Trời Đất? "Mười phần chết bảy còn ba. Chết hai còn một mới ra thái bình"?

Trong cơn lốc kinh hoàng này, trong cái thế "ngàn cân treo sợi tóc" này, các nước nhỏ muốn tồn tại cần có những nhân tài kiệt xuất như Quản Trọng, Phạm Lãi, Nhạc Nghị, Tô Tần, Trương Nghi…phải lấy sức mình là chính cùng sách lược ngoại giao linh động. Nghi ngờ quá thì không làm được chuyện gì, mà cả tin quá thì chết. Phải  "biết" như Lão Tử nói, "biết thì sống".

Đào Văn Bình

  California ngày 5/2/2013)

“Bên Thắng Cuộc” lột trần hậu trường chính trị Việt Nam


BS Ngọc
 
Phải nói cho rõ là "hậu trường chính trị của chế độ Việt Nam theo chủ nghĩa xã hội, hay cộng sản". Đã có nhiều người viết bài điểm sách, tôi không có gì để viết thêm. Tôi chỉ muốn rút ra vài điểm chính sau khi đã đọc xong bộ sách. Theo tôi nghĩ những câu chuyện Huy Đức thuật lại trong sách có thể giải thích tại sao nước ta nghèo hèn như hiện nay. Tôi cũng nghĩ các lãnh đạo thuộc phe XHCN của miền Bắc phải chịu trách nhiệm lớn trước lịch sử về những sai lầm của họ.
 
Một nhà văn hoá Âu châu từng nói rằng lịch sử chỉ là một chuỗi câu chuyện về gia đình và thế giới. Bởi thế, kể chuyện là một phương tiện có hiệu lực cao để giải thích những gì đã và đang xảy ra. Có thể khẳng định ngay rằng bộ sách Bên thắng cuộc của Huy Đức không phải là sách lịch sử. Huy Đức cũng nói rằng anh không viết sử. Tôi xem Bên thắng cuộc là một chuỗi câu chuyện hậu trường chính trị Việt Nam. Tất cả chúng ta cần phải biết những câu chuyện mà Huy Đức kể lại, bởi vì những câu chuyện đó sẽ thắp lên một que diêm trong cái lịch sử mờ ảo của Việt Nam vào những năm giữa thế kỷ 20 cho đến ngày hôm nay.
 
Đọc phần I của tập sách tôi như xem một cuốn phim quay chậm. Những kẻ một sớm chiều biến thành "Cách mạng 30/4". Đốt sách. Cạo râu, cắt ống quần. Cải tạo. Kinh tế mới. Đánh "tư sản mại bản". Đổi tiền. Vượt biên. Tất cả những biến cố đó là sự thật. Là người ở lại trong khi các đồng nghiệp tìm được vượt biên tôi có thể nói rằng tất cả những gì Huy Đức ghi chép đều đúng. Huy Đức không phải là người đầu tiên ghi lại những biến cố đau thương sau 1975. Trước Huy Đức đã có cụ Nguyễn Hiến Lê viết lại cẩn thận những sự kiện và biến cố làm cho miền Nam suy sụp sau ngày "giải phóng" trong tập Hồi Ký nổi tiếng nhưng bị nhà xuất bản cắt xén khá nhiều. Chúng ta thử đọc vài trích đoạn trong Hồi Ký của cụ Nguyễn Hiến Lê trước khi đọc sách của Huy Đức.
 
Kẻ "thắng trận" muốn biến miền Nam nghèo như miền Bắc:
 
"Sự thất bại hiển nhiên của chế độ là sự suy sụp của kinh tế như tôi đã trình bày sơ lược ở trên. Hậu quả là Việt nam trước thế chiến tự hào là "tiền rừng bạc bể", có những đồng lúa, đồn điền cao su mênh mông ở miền Nam, những mỏ than, mỏ phốt phát phong phú ở miền Bắc mà bây giờ thành một trong vài nước nghèo nhất thế giới.
Nhưng một người Balan trong Ủy ban kiểm soát quốc tế năm 1975 bảo chỉ trong 5 năm, miền Nam sẽ "đuổi kịp miền Bắc", nghĩa là nghèo như miền Bắc. Lời đó đúng, rất sáng suốt. Nếu không nhờ mấy trăm ngàn kiều bào ở ngoại quốc gởi tiền, thuốc men, thực phẩm, quầ áo… về giúp bà con ở đây thì chúng ta hiện nay cũng điêu đứng như anh em miền Bắc rồi".
 
Trong cùng lúc ra tay hành hạ dân miền Nam:
 
"Khổ nhất là bọn đi kinh tế mới, thất bại, tiêu tan hết vốn liếng, về Sài gòn, sống cảnh màn trời chiếu đất, ăn xin, moi các đống rác hôi thối, lượm một miếng giấy vụn, một túi ni lông, một miếng sắt rỉ, một quai dép mủ… để bán cho "ve chai". Trông thấy đống túi ni lông được rửa qua loa trong nước dơ rồi phơi ở lề đường để bán cho tiểu thương đựng hàng, tôi ghê tởm quá".
 
Trong khi đó bản thân những kẻ "thắng cuộc" thì ăn hối lộ và tham nhũng:
 
"Ở tỉnh nào cũng có một số cán bộ tham nhũng cấu kết với nhau thành một tổ chức ăn đút ăn lót một cách trắng trợn, không cần phải lén lút. Có giá biểu đàng hoàng: xin vô hộ khẩu một thành phố lớn thì bao nhiêu tiền, một thị xã nhỏ thì bao nhiêu, một ấp thì bao nhiêu. Muốn mua một vé máy bay, vé xe lửa thì bao nhiêu. Muốn được một chân công nhân viên, phải nộp bao nhiêu… Cái tệ đó còn lớn hơn thời trước".
 
Họ tạo nên một xã hội trong đó con người mất nhân phẩm:
 
"Một cán bộ tài chánh xã mà không biết chia 72 cho 24. Trong một buổi hội họp của Hội trí thức thành phố Hồ Chí Minh, một kĩ sư già bực mình vì tình trạng cán bộ đa số dốt nát, bảo: "Tôi chấp nhận vô sản chuyên chính, mà không chấp nhận vô học chuyên chính". Ngay chiều hôm đó ông ta bị bắt giam; sau cũng được thả ra".
"Sống dưới chế độ cộng sản, con người hóa ra có hai mặt như Sakharov đã nói: chỉ giữa người thân mới để lộ mặt thật, còn thì phải đeo mặt nạ; luôn luôn phải đề phòng bạn bè, láng giềng, có khi cả người trong nhà nữa. Người ta tính cứ 5 người thì có 1 người kiểm soát từng ngôn ngữ, hành vi của 4 người kia. Ngay một phó viện trưởng cũng làm việc điểm chỉ đó mà bạn trong viện không hay. Dĩ nhiên kẻ kiểm soát đó lại bị người khác kiểm soát lại. Ở Nga thời Staline như vậy, ở Bắc những năm 1954-1960 cũng gần như vậy; ở Nam đỡ hơn vì đa số người trong này không chịu làm thứ mật thám chìm đó".
 
Tình trạng phân chia Nam Bắc càng nặng:
 
"Thất bại lớn nhất, theo tôi, là không đoàn kết được quốc dân. Tháng 5-1975, có ít nhất là 90% người miền Nam hướng về miền Bắc, mang ơn miền Bắc đã đuổi được Mĩ đi, lập lại hòa bình, và ai cũng có thiện chí tận lực làm việc để xây dựng lại quốc gia. Nhưng chỉ sáu bảy tháng sau, cuối 1975 đã có đa số người Nam chán chế độ ngoài Bắc, chán đồng bào Bắc. Tôi nhớ như ở phần trên tôi đã nói năm 1976, trong một cuộc hội nghị ở Sài gòn, bàn về vấn đề thống nhất quốc gia, một học giả lão thành miền Bắc, ông Ðào Duy Anh (đã có hồi sống ở Nam nhiều năm, có nhiều bạn thân ở Nam) khi được mời phát biểu ý kiến, chỉ nói mỗi một câu đại ý là thống nhất cái gì cũng dễ; quan trọng nhất là phải thống nhất nhân tâm đã. Cả hội trường sửng sốt và làm thinh.

Ông Anh đã nhận xét đúng và dám nói. Quả thực là lúc đó có sự chia rẽ nặng giữa người Nam và người Bắc, Nam đã không muốn thống nhất với Bắc rồi. Từ đó, tinh thần chia rẽ cứ mỗi ngày mỗi tăng, năm nay (1980) có thể nói 90% người miền Nam hay hơn nữa, muốn tách khỏi miền Bắc
".
 
bởi vì một trong những nguyên nhân là:
 
"Người Bắc coi người Nam là ngụy, đối xử với người Nam như thực dân da trắng đối với dân "bản xứ", tự cao tự đại, tự cho rằng về điểm nào cũng giỏi hơn người Nam, đã thắng được Mĩ thì cái gì cũng làm được. Chỉ cho họ chỗ sai lầm trong công việc thì họ bịt miệng người ta bằng câu: "Tôi là kháng chiến, anh là ngụy thì tôi mới có lí, anh đừng nói nữa.
Chẳng bao lâu người Nam thấy đa số những kẻ tự xưng là kháng chiến, cách mạng đó, được Hồ chủ tịch dạy dỗ trong mấy chục năm đó, chẳng những dốt về văn hóa, kĩ thuật -điều này không có gì đáng chê, vì chiến tranh, họ không được học- thèm khát hưởng lạc, ăn cắp, hối lộ, nói xấu lẫn nhau, chài bẫy nhau… Từ đó người Nam chẳng những có tâm trạng khinh kháng chiến mà còn tự hào mình là ngụy nữa, vì ngụy có tư cách hơn kháng chiến. Và người ta đâm ra thất vọng khi thấy chân diện mục của một số anh em cách mạng đó, thấy vài nét của xã hội miền Bắc: bạn bè, hàng xóm tố cáo lẫn nhau, con cái không dám nhận cha mẹ, học trò cấp II đêm tới đón đường cô giáo để bóp vú…".
Nhưng cụ Nguyễn Hiến Lê ghi chép thời cuộc, tình hình chung, còn Huy Đức thì cung cấp cho chúng ta những câu chuyện hậu trường, những suy nghĩ cá nhân của những người nặn ra những chính sách ác ôn dẫn đến tình hình mà cụ Nguyễn Hiến Lê nhận xét. Có thể nói rằng cuốn sách của Huy Đức là một bổ sung quý báu cho hồi ký của cụ Nguyễn Hiến Lê.
Bây giờ chúng ta thử đọc xem Huy Đức đã cho chúng ta chứng từ để giải thích cho những nhận xét của cụ Nguyễn Hiến Lê. Đọc xong bộ sách tôi thấy những thông điệp sau đây lắng đọng trong tôi:
 
1.- Đó là một chế độ độc tài và toàn trị. Người cộng sản nói rằng chế độ do họ dựng lên là dân chủ tập trung. Nhưng trong thực tế chúng ta thấy rằng chẳng có gì là dân chủ trong chế độ cộng sản. Tất cả các chính sách đều do một nhóm người trong Bộ chính trị quyết định. Nhưng qua Bên thắng cuộc, chúng ta còn biết rằng rất nhiều chính sách có ảnh hưởng đến hàng triệu người chỉ do một người quyết định, bất chấp những lời khuyên của người khác. Điển hình cho tính độc tài là quyết định mở cuộc tổng tấn công vào Tết Mậu Thân. Rõ ràng, đó là một chế độ độc tài, sao gọi là dân chủ tập trung được.
 
Điều mỉa mai nhất là họ cáo buộc rằng chế độ VNCH là do Mỹ dựng lên và tay sai của Mỹ, nhưng chính người lãnh đạo cao cấp nhất trong chế độ CS là Lê Duẩn khẳng định rằng họ đánh miền Nam là đánh cho Liên Xô, cho Trung Cộng. Hình như chưa một lãnh đạo miền Nam chưa ai trơ tráo nói rằng họ là tay sai của Mỹ. Nói cách khác, chế độ CS ngoài Bắc thời đó là một chế độ toàn trị tay sai của ngoại bang.
 
Tính toàn trị còn thể hiện qua việc Bộ chính trị kiểm soát cả hành vi xã giao của các đồng chí họ. Đọc đoạn Huy Đức tả cái bắt tay hờ hững của cựu thủ tướng Phan Văn Khải với ông Bill Clinton mà buồn cười về sự trẻ con và thiếu văn hoá của lãnh đạo CS. Ông Khải không mở miệng cười với Bill Clinton. Khi được hỏi tại sao lại có hành vi kém xã giao như vậy, ông Khải thú nhận: "Không được đâu mày ơi, Bộ chính trị đã thống nhất là không được cười". Đoạn viết về một ông tướng công an "làm việc" với ban giám hiệu Đại học Quốc gia Hà Nội để chỉ đạo lúc nào nên cười, lúc nào nên vỗ tay, thậm chí những hành vi xem thường ông Bill Clinton như để cho sinh viên đọc báo trong lúc ông nói. Tất cả những hành động và sự giật dây đó là những minh chứng hùng hồn cho thấy chế độ toàn trị kiểm soát tất cả hành vi sống của người dân.
 
2.- Nội bộ thiếu đoàn kết. Thoạt đầu, ấn tượng của tôi về các vị lãnh đạo phe CSVN là họ rất đoàn kết với nhau. Nhưng đọc qua Bên thắng cuộc và kinh nghiệm cá nhân, tôi mới thấy ấn tượng đó rất sai lầm. Người CSVN, đặc biệt là trong giới lãnh đạo thượng tần, rất ganh ghét và đố kỵ lẫn nhau. Huy Đức qua những câu chuyện cá nhân phác hoạ một bức tranh rất xấu về Lê Đức Thọ và Lê Duẩn, hai người không ưa tướng Võ Nguyên Giáp. Từ một tướng vang danh thế giới bị hạ xuống người đi đặt vòng ngừa thai cho phụ nữ! Những ganh ghét và đố kỵ rất con người cũng giống như các lãnh đạo thuộc phe VNCH. Nhưng có cái khác biệt căn bản là các lãnh đạo VNCH hành xử có văn hoá hơn và có phần tế nhị hơn so với các lãnh đạo phe CS.
 
Họ sẵn sàng dựng nên những câu chuyện để bôi xấu lẫn nhau. Vụ án "Năm Châu – Sáu Sứ" được Huy Đức mô tả khá rõ và cho thấy các đồng chí thượng tầng CS có thể lập mưu mô để hạ bệ những ai họ không ưa thích. Họ còn dám dùng cả những thủ đoạn thấp như photoshop để nguỵ tạo hình ảnh trai gái để tố cáo ông Lê Khả Phiêu lúc đó là tổng bí thư đảng.
 
3.- Tàn nhẫn. Sự hành xử của một số lãnh đạo CS cấp cao có thể nói là tàn nhẫn. Sự tàn nhẫn thể hiện ngay giữa các đồng chí. Chúng ta thử đọc qua đoạn mô tả Võ Chí Công, Đoàn Khuê và Nguyễn Đức Tâm trả thù Võ Viết Thanh sau khi tướng Thanh bắt Năm Châu và Sáu Sứ:
 
"Tôi tới phòng làm việc của Đoàn Chủ tịch Đại hội, thấy Võ Chí Công, Nguyễn Đức Tâm, Đoàn Khuê, Nguyễn Quyết, Nguyễn Thanh Bình đang chờ. Mặt Đoàn Khuê hằm hằm, Võ Chí Công và Nguyễn Đức Tâm nói ngắn gọn: 'Chúng tôi thay mặt Bộ Chính trị, Ban Bí thư, báo đồng chí hai nội dung. Trước hết, xin chuyển tới đồng chí nhận xét của Bộ Chính trị: Đồng chí là một cán bộ cao cấp còn trẻ, công tác tốt, rất có triển vọng, nhưng rất tiếc, chúng tôi vừa nhận được một số báo cáo tố cáo đồng chí hai việc: Một, ngay sau giải phóng, đồng chí có cho bắt hai cán bộ tình báo của Bộ Quốc phòng và từ đó hai cán bộ này mất tích; hai, cái chết của cha mẹ đồng chí là bị ta trừ gian, chứ không phải do địch giết. Vì vậy, chúng tôi đành phải rút đồng chí ra khỏi danh sách tái cử vào Trung ương khóa VII'."
 
Ông Võ Viết Thanh phản ứng như ssau:
 
"Tôi hết sức bất ngờ. Khi nghe xúc phạm đến ba má tôi thì tôi không còn kiềm chế được. Trong cặp tôi lúc đó có một khẩu súng ngắn, tôi đã định kéo khóa, rút súng ra bắn chết cả ba ông rồi tự sát. Nhưng, tình hình lúc đó, nếu tôi làm thế là tan Đại hội. Tôi cố nuốt cơn tức giận."
 
4.- Lừa gạt và dối trá. Người dân đã bị bộ máy tuyên truyền của chế độ định hướng suy nghĩ và cảm nhận. Những trẻ em mới lớn lên đã bị bộ máy tuyên truyền nhồi nhét rằng các vị lãnh đạo đáng kính suốt đời hy sinh hạnh phúc cá nhân để đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Họ còn bị nhồi nhét rằng chế độ VNCH là chế độ ác ôn, với những con người ăn trên ngồi trốc, trong khi phần lớn người lao động phải sống khổ cực. Nhưng Bên thắng cuộc lột trần "huyền thoại" cao cả của các lãnh đạo CS. Sự thật nói lên rằng họ chính là những người ăn trên ngồi trốc. Trong khi người dân không đủ cơm ăn thì họ phè phỡn với bơ sữa từ Đông Âu. Họ có những vườn rau riêng. Họ có một đội quân bác sĩ chăm sóc sức khoẻ dưới danh xưng "Ban bảo vệ sức khoẻ trung ương". Người dân không có thuốc điều trị nhưng lãnh đạo CS thì có thừa. Nếu lấy cái nền lãnh đạo VNCH có đặc quyền đặc lợi là 1 thì những người lãnh đạo CS có đặc quyền đặc lợi phải lên đến 100. Do đó, tất cả những gì người CS phỉ báng giới lãnh đạo VNCH thì cũng chính là những gì họ phỉ báng chính họ với cường độ cao hơn 100 lần. Một cách ngửa mặt lên trời phun nước bọt.
 
5.- Đạo đức giả. Báo chí miền Bắc thường ra rả tuyên truyền rằng lãnh đạo VNCH là những kẻ ăn chơi, đa thê đa thiếp, chỉ biết suốt ngày nhảy đầm chứ chẳng có kiến thức chính trị gì cả. Họ còn viết hẳn một cuốn sách về các tướng lãnh VNCH. Đọc cuốn này cũng là một phương thức giải trí tốt vì các tác giả có khả năng tưởng tượng khá tốt. Nhưng còn các lãnh đạo CS thì sao? Họ là những kẻ nhiều vợ. Lê Duẩn. Nguyễn Văn Linh. Lê Đức Thọ. Võ Văn Kiệt. Có thể cả ông Hồ. Tất cả đều có hơn 1 vợ. Tất cả đều sẵn sàng bỏ vợ lại sau lưng để "theo đuổi sự nghiệp cách mạng". Nhưng cũng có thể họ xem phụ nữ như là những người để họ giải quyết vấn đề tình cảm sinh lý. Không phải ai trong giới lãnh đạo CS đều sống vô đạo đức, nhưng nhìn qua những nhân vật cao cấp chúng ta thấy nói rằng thói đạo đức giả rất phổ biến trong giới thượng tầng của chế độ.
 
6.- Dốt nát. Chúng ta biết rằng những người cộng sản thế hệ thứ nhất như Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp (không tính đến những người như Trần Phú, Hà Huy Tập, Nguyễn Văn Cừ) là những người có trình độ học vấn khá và có bản lãnh. Nhưng Bên thắng cuộc tiết lộ rằng những người thuộc thế hệ đàn em của những người tiền phong toàn là một nhóm người ít học. Những lãnh đạo như ông Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Nguyễn Văn Linh … đều xuất thân từ thành phần không có cơ hội học hành đến nơi đến chốn. Sự dốt của lãnh tụ có khi đến mức hài hước. Trong phần viết về sức khoẻ lãnh đạo, chúng ta được biết ông Đỗ Mười nói về bệnh trạng của tướng Đoàn Khuê, qua lời thuật của ông Nguyễn Văn An, như sau: "Đoàn Khuê nói với tao, uống tam thất nó tan hết rồi mà. Đoàn Khuê còn vạch bụng cho tao xem. Tôi bảo: thưa anh, theo chuyên môn thì đấy là khối u nó chạy chứ không phải tan đâu ạ". Thật kinh hoàng khi những con người như thể được đặt ở vị trí chót vót lãnh đạo một đất nước 90 triệu dân!
 
Qua Bên thắng cuộc chúng ta biết rằng các lãnh đạo CS có tầm nhìn rất hạn hẹp. Có thể do bị nhào nặn bởi tuyên truyền cộng với kém học thức nên các lãnh đạo CS có kiến thức rất nghèo nàn về thế giới ngoài các nước XHCN và Trung Cộng. Từ đó dẫn đến những nhận định sai lầm và những lựa chọn bất lợi cho đất nước. Điển hình là câu chuyện đằng sau việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Mỹ. Câu chuyện cho thấy giới lãnh đạo CS thiển cận và làng xã trong những nhận xét của họ về một đối thủ rất quan trọng.
 
Chúng ta thử đọc một đoạn "Cứu chủ nghĩa xã hội" để thấy ông Nguyễn Văn Linh có tầm nhìn và hành xử đầy kịch tính ra sao. Đọc cũng để thấy Gorbachev chẳng những mỉa mai mà còn khinh Nguyễn Văn Linh như thế nào:
 
Ông Nguyễn Văn Linh cho rằng Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh:
 
Tháng 10-1989, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh tới Berlin dự lễ kỷ niệm bốn mươi năm ngày thành lập Nước Cộng hòa Dân chủ Đức. Theo ông Lê Đăng Doanh: "Quyết địng đi dự 40 năm Quốc Khánh CHDC Đức là quyết định trực tiếp của cá nhân anh Linh. Anh Linh đã bàn với Bộ Chính trị về việc phải triệu tập một Hội nghị các Đảng Cộng Sản và Công nhân quốc tế để cứu phong trào cộng sản, chống chủ nghĩa cơ hội. Anh sang Berlin là để gặp các đồng chí để bàn về việc ấy và gặp Gorbachev. Trong một cuộc họp, anh Linh nhận xét: Gorbachev là kẻ cơ hội nhất hành tinh này".
 
Bị đối xử như thương gia tầm thường:
Ngày 4-10-1989, từ Hà Nội, hãng Interflug của Cộng hòa Dân chủ Đức dành cho ông Linh một ghế hạng thương gia, các thành viên cao cấp khác – Phó Thủ tướng Nguyễn Khánh, Trợ lý Tổng Bí thư Lê Xuân Tùng, Phó Ban Đối ngoại Trịnh Ngọc Thái, Đại sứ Tạ Hữu Canh và thư ký Lê Đăng Doanh – chỉ ngồi khoang hành khách thường.
 
Bị xem thường:
 
Một lễ đón đơn giản được tổ chức tại sân bay Berlin-Schronefeld rồi sau đó đoàn về khách sạn. …. Trong suốt chuyến thăm chính thức ấy, phía CHDC Đức không thu xếp cho ông Linh một buổi gặp chính thức nào với Honecker hay một nhà lãnh đạo khác. Thế nhưng, điều đó đã không làm ông Nguyễn Văn Linh từ bỏ ý đồ đóng vai trò trung tâm cứu nguy chủ nghĩa xã hội.
Đến nơi ở của các nhà lãnh đạo khác mới thấy cách đối xử của Erich Honecker với ông Nguyễn Văn Linh. … Trong khi ông Linh chỉ được xếp một phòng đôi lớn hơn phòng các thành viên khác trong đoàn một chút thì chỗ ở của Ceausesscu là một khu vực gồm nhiều phòng. Ông Linh và tùy tùng phải đi qua một sảnh lớn nơi có một đội cận vệ 12 người bồng tiểu liên AK báng gập đứng chào. Ceaucesscu đã để ông Linh phải ngồi chờ rất lâu. Ông Linh nói: "Mày liên hệ thế nào mà giờ không thấy nó". Tôi bảo: "Tính thằng này nó hình thức thế". Một lúc sau thì Ceausesscu ra, chính ông ta lại là người tỏ ra hăng hái ủng hộ sáng kiến của ông Nguyễn Văn Linh nhất. Ceausesscu thậm chí còn đòi để Rumani đăng cai. Tuy nhiên, cả Ceausesscu và các nhà lãnh đạo cộng sản khác đều nói với ông Linh: "Vấn đề là ông kia, nếu ông ấy không đồng ý thì rất khó". "Ông kia" đề cập ở đây là Gorbachev.
 
Dù ông Linh rất nhiệt tình cứu XHCN nhưng người ta làm ngơ:
 
 
Trong ngày 6-10-1989, giữa Berlin rét mướt, ông Nguyễn Văn Linh đã tìm gặp các nhà lãnh đạo cộng sản đến dự lễ quốc khánh để thảo luận về một sáng kiến mà ông đưa ra: triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế. Ông Linh nói: "Phe ta đang diễn biến phức tạp. Hơn bao giờ hết, đòi hỏi quốc tế vô sản phải siết chặt hàng ngũ. Đảng Cộng sản Việt Nam thấy nên có một hội nghị để thống nhất tư tưởng và hành động, tăng cường tình đoàn kết".
Đa số các đảng cộng sản làm ngơ đề nghị của ông Linh, chỉ có Batmunkho Tổng Bí thư Mông Cổ, Phó Thủ Tướng Hernandez của Cuba, Tổng Bí thư Ceaucescu của Rumania, Tổng Bí thư Đảng vừa thất cử của Ba Lan Jaruzelski, Chủ tịch Đảng Cộng Sản Tây Đức (DKP) Herbert Mies là chấp nhận gặp. Chỉ có Helbert Mies, lãnh tụ của một đảng không cầm quyền và Phó thủ tướng Cuba Hernandez là tự tới nơi ông Linh ở. Theo ông Lê Đăng Doanh, những người khác chỉ tiếp ông Nguyễn Văn Linh tại phòng riêng của họ.
 
Sau nhiều cuộc trì hoản thì ông Linh cũng được Gorbachev cho một cuộc gặp mặt. Nhưng đó là một cuộc gặp mặt để Gorbachev khinh miệt ông Linh. Chúng ta hãy đọc tiếp:
 
Từ 19 đến 21 giờ tối 6-10-1989, sau phần đọc diễn văn, cuộc mit-tin được chuyển từ trong một lâu đài ra một lễ đài ngoài trời duyệt quần chúng, thanh niên rước đuốc. Ông Lê Đăng Doanh kể: Đám thanh niên tuần hành sôi lên sùng sục kêu tên Gorbachev, "Gorby! Gorby!". Anh Linh chỉ mặc bộ complet, tối nhiệt độ xuống khoảng 8 C, cận vệ quên mang áo lạnh, ông Nguyễn Văn Linh đứng run bần bật, kêu tôi: "Tao lạnh quá". Tôi phải nói với một viên tướng Đức đứng cạnh đấy: "Tổng Bí thư của tôi quên mang áo ấm". Viên tướng cho mượn tạm tấm áo choàng của ông ta.
 
Sáng hôm sau, 7-10-1989, theo lịch trình, mười giờ sẽ có duyệt binh, nhưng tám giờ, ông Nguyễn Văn Linh triệu tập họp Chi bộ Đảng thông báo tình hình sức khỏe: "Mình thấy có gì đó không bình thường, không nhắm được mắt, miệng cứng, không ăn được". Về sau bác sỹ xác định đó là triệu chứng liệt dây thần kinh số 7. Mọi người đề nghị ông Linh không ra lễ đài, ông Nguyễn Khánh thay ông Linh dự duyệt binh rồi báo với "bạn". Phía CHDC Đức mời ông Linh ở lại khám chữa bệnh và khuyên ông không nên về trong lúc này. Tuy bệnh tình càng ngày càng nặng, nước mắt chảy ra nhiều, miệng có biểu hiện bị méo và nói bắt đầu khó khăn, ông Nguyễn Văn Linh vẫn hy vọng rất nhiều vào cuộc gặp với Gorbachev.
 
Cuộc gặp Gorbachev dự kiến diễn ra lúc 10:30 sáng 8-10-1989, nhưng chờ đến mười một giờ cũng không thấy văn phòng ông ta gọi lại. Ông Linh rất sốt ruột. Theo ông Lê Đăng Doanh: Trong khi đó, sáng ngủ dậy, bệnh ông Linh càng nặng thêm. Khi ăn cơm, ông kêu tôi ra ngoài vì không muốn tôi chứng kiến cảnh ông ăn rất chật vật. Hàm bên trái của ông Linh cứng lại. Ông phải nhai ở phía bên phải sau đó dùng hai ngón tay đẩy thức ăn vào họng, chiêu một ngụm nước mới nuốt được.
 
Cuộc gặp Gorbachev được lùi lại 2:30 rồi 5:30 chiều cùng ngày. Gorbachev, khi ấy vẫn là nhà lãnh đạo của cả phe xã hội chủ nghĩa, được bố trí ở trong một tòa lâu đài. Nhưng, cuộc tiếp tổng bí thư Việt Nam đã không diễn ra trong phòng khách riêng mà ở ngay một phòng rộng mênh mông vừa dùng cho một tiệc chiêu đãi lớn, thức ăn thừa còn bề bộn trên các bàn. Nhân viên dọn một góc, kê bàn để Gorbachev tiếp ông Nguyễn Văn Linh. Gorbachev ra đón ông Linh ở sảnh và khi cửa xe mở, ông cúi đầu nói: "Kẻ cơ hội nhất hành tinh kính chào đồng chí Nguyễn Văn Linh".
 
Dù đang bệnh, ông Nguyễn Văn Linh vẫn trình bày rất nhiệt tình, nhưng theo ông Lê Đăng Doanh: Sáng kiến nào của ông Linh cũng được Gorbachev khen là "rất tốt" nhưng chỉ là những lời khen xã giao. Ông Linh nói: "Tôi đã gặp một số đảng cộng sản anh em. Trong tình hình này, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn đồng chí đứng ra triệu tập hội nghị các đảng cộng sản và phong trào công nhân quốc tế". Gorbachev liền giơ hai tay lên tươi cười: "Ý này hay nhỉ. Để xem! Để xem! Rất tiếc là giờ tôi đang nhiều việc quá!". Ông Linh trân trọng mời Gorbachev đến thăm Việt Nam. Gorbachev lại kêu lên: "Hay quá nhỉ! Cám ơn! Cám ơn! Nhưng, tôi đang có nhiều lời mời quá mà chưa biết thu xếp cái nào trước".
Cuối cùng, Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đề cập đến truyền thống viện trợ của Liên xô và khi ông đề nghị Liên Xô tiếp tục giúp đỡ cho Kế Hoạch 5 năm 1990-1995 của Việt Nam thì Gorbachev xua tay. Không còn xã giao, lịch sự như phần trên nữa, Gorbachev nói: "Khó khăn lắm, khó khăn lắm, các đồng chí Việt Nam tự lo thôi". Theo ông Lê Đăng Doanh: Thế nhưng, ngày hôm sau, báo Nhân Dân và Pravda đều đưa tin về cuộc gặp diễn ra trong "tình hữu nghị thắm thiết".
 
Đọc những đoạn trích dẫn rất sống động này tôi phải nói là rất nhục. Là lãnh tụ một đất nước 90 triệu dân mà không nắm được tình hình thế giới để bị các lãnh đạo của chính thế giới XHCN xem thường như thế. Ông Nguyễn Mạnh Cầm có lẽ là người ngoại giao nên còn biết được tình hình thế giới. Ông đưa ra nhận xét rằng "Nhận thức của một số đồng chí trong Bộ chính trị lúc bấy giờ không theo kịp những thay đổi của tình hình thế giới". Không theo kịp tình hình thế giới có nghĩa là sống trong cái ao làng. Chẳng biết ông Linh có hiểu những câu nói của Gorbachev hay không. Thật là nhục nhã. Tất cả cũng vì cái dốt.
 
Cái dốt của lãnh đạo CS còn thể hiện qua lần tiếp kiến giữa ông Lê Khả Phiêu và Bill Clinton. Trong buổi tiếp kiến, trong khi Bill Clinton nói về tương lai hợp tác, ông Lê Khả Phiêu lại tận dụng chuyện Bill Clinton "trốn lính" làm cho ông Bill Clinton rất giận và chắc chắc cũng rất khinh thường người đối diện mình:
 
"Bill Clinton nhớ lại: "Lê Khả Phiêu cố gắng sử dụng hành động phản đối chiến tranh Việt Nam của tôi để cáo buộc những gì Mỹ đã làm là hành vi đế quốc. Tôi đã rất giận dữ nhất là khi ông ta nói vậy trước sự có mặt của Đại sứ Pete Peterson, một người đã từng là tù binh chiến tranh. Tôi nói với nhà lãnh đạo Việt Nam rằng khi tôi không tán thành các chính sách đối với Việt Nam, những người theo đuổi nó cũng không phải là đế quốc hay thực dân, mà là những người tốt chiến đấu chống cộng sản. Tôi chỉ Pete và nói, ông đại sứ không ngồi sáu năm rưỡi trong nhà tù 'Hà Nội Hilton' vì muốn thực dân hóa Việt Nam".
 
"Ông Phan Văn Khải nhớ lại: "Ông Phiêu nói như thời chiến tranh làm cho họ rất khó chịu. Ông ấy muốn tỏ rõ thái độ của một chính quyền cộng sản. Nhưng, ông Phiêu không hiểu tình hình thế giới giờ đây đã khác. Phe xã hội chủ nghĩa đã tan rã. Vấn đề là mối quan hệ giữa hai quốc gia, chúng ta cần Mỹ. Nếu người Mỹ không vào thì những công ty lớn trên thế giới không có ai vào cả". …
Clinton nhận xét, dường như những người mà ông gặp ở Việt Nam, chức vụ càng cao hơn thì ngôn ngữ càng "sặc mùi" cộng sản theo kiểu cũ hơn".
 
Sự dốt nát chính là một nguyên nhân chính dẫn đến những cuộc bỏ lỡ cơ hội để phát triển đất nước. Câu chuyện xung quanh ký hiệp định thương mại song phương BTA cho thấy giới lãnh đạo thượng tầng CS rất sợ Trung Cộng. Ông Nguyễn Mạnh Cầm nói "Tôi tiếc đứt ruột. Năm 1999, Bill Clinton muốn ký trước mặt các nhà lãnh đạo đủ cả phương Tây lẫn phương Đông. Khi ấy các tập đoàn sản xuất hàng xuất khẩu sang Mỹ chỉ chờ có hiệp định là nhảy vào Việt Nam. Mình quyết định không ký, mất biết bao nhiêu cơ hội". Không chỉ BTA, ngay cả những chần chừ để trở thành thành viên của ASEAN cũng phản ảnh sự kém hiểu biết của những người lãnh đạo CS chóp bu.
 
Sự dốt nát và kém hiểu biết của người CS không phải chỉ biểu hiện trong giới lãnh đạo mà còn ở những người trong giới học thuật và chuyên môn. Sau 1975 tôi đã có nhiều "tiếp cận" với những đồng nghiệp y khoa từ Bắc vào. Tôi có thể nói một cách không ngần ngại rằng trình độ của họ quá kém. Có lần một anh bác sĩ nghe nói là cấp cao ngoài đó mà viết tên thuốc trụ sinh còn sai. Không phải sai một lần mà nhiều lần. Chỉ nhìn nét chữ cũng có thể biết được anh chàng này thuộc thành phần bác sĩ gì. Ngay cả những người được "chi viện" để tiếp thu trường y Sài Gòn cũng là những người rất kém cỏi về kiến thức và kỹ năng lâm sàng. Họ bị các thầy trong Nam khinh ra mặt. Do đó tôi không hề ngạc nhiên khi đọc những dòng chữ viết về phản ứng của giới trí thức trong Nam trước những chính sách quái đản được áp dụng sau 1975. Họ vận hành theo tư duy rặt mùi cộng sản. Cứ đến ngày kỷ niệm nào đó họ hỏi có thành tích khoa học gì để chào mừng và nhận được câu trả lời của thầy Phạm Biểu Tâm: "Không có thứ khoa học nào gọi là khoa học chào mừng cả". Sau này trong một lần họp bàn về cách giải quyết hệ thống nước bị đục, giáo sư Phạm Biểu Tâm không phát biểu gì cả. Đến khi bị ông Võ Văn Kiệt gặn hỏi, giáo sư Tâm vốn rất quý ông Kiệt, chỉ nói đơn giản "Từ ngày mấy anh về, cái đầu trí thức khoẻ, vì cái gì cũng đã có các anh nghĩ hết. Nước là chuyện mấy anh đâu phải chuyện tụi tui". Đối với giới trí thức miền Nam ngày ra mắt đầu tiên của chính quyền không hề thuyết phục được họ. Cho đến bây giờ tình hình vẫn thế.
 
Bên thắng cuộc đã trở thành một tác phẩm bán chạy. Nếu được công bố ở trong nước tôi nghĩ chắc chắn bộ sách sẽ qua mặt bất cứ cuốn sách nào đang có trên thị trường. Đọc xong bộ sách tôi hiểu được tại sao nó nổi tiếng. Theo tôi, Bên thắng cuộc được nhiều người quan tâm vì trong đó có rất nhiều những câu chuyện hậu trường chính trị. Đặc biệt hơn là tất cả những câu chuyện hậu trường đều nói lên những hình ảnh tiêu cực của giới lãnh đạo CSVN. Khó tìm một câu chuyện nào mang tính tích cực trong sách. Trong đó có những con người ít học nhưng ngạo mạn. Đó là những con người đạo đức giả. Đó là những con người sẵn sàng chấp nhận đớn hèn để sống trong môi trường tàn ác. Đó là những con người tàn nhẫn và xảo trá. Những cá tính lãnh đạo như thế là tác giả của những quyết sách đi từ sai lầm này đến sai lầm khác. Họ dẫn đất nước bỏ mất cơ hội hết năm này sang năm khác. Những câu chuyện như thế giúp cho chúng ta nhìn thấy rõ hơn cái tâm kém và cái trí thấp của một số đông lãnh đạo chóp bu và giải thích tại sao đất nước và dân tộc chúng ta đã quá bất hạnh trong suốt 70 năm qua. Họ là nguyên nhân gần và tác nhân trực tiếp đã đưa đất nước nghèo hèn như hiện nay. Họ phải chịu trách nhiệm trước lịch sử./.

BS Ngọc

2013/02/03

Sự Thật Về Tướng Giáp: Đừng Bốc Phét Nữa


Trần Hồng Tâm

Tôi là một gã Bắc kỳ. Từ lớp vỡ lòng đến đại học tôi được học dưới cái gọi là "mái trường XHCN". Anh tôi là một bộ đội phục viên. Cháu ruột là đại tá trung đoàn trưởng trung đoàn bộ binh đang tại chức. Tôi đi nghĩa vụ quân sự 3 năm, mang quân hàm trung úy, chức đại đội phó, có tham gia một vài trận đánh ở chiến trường Campuchia.

Dài dòng một chút để các bạn hiểu: tôi không liên hệ gì đến Việt Nam Cộng Hòa. Tôi không hận thù, không chống cộng. Tôi chỉ muốn được chia sẻ chút suy nghĩ của mình trước những thậm từ mà thiên hạ đang sử dụng để tung hô tướng Giáp:
"mãi mãi là một biểu tượng sống động của trí tuệ"; "Thiên tài quân sự"; "Đại trí, đại nhân, đại dũng"; "Vị tướng huyền thoại"; "Nhà quân sự lỗi lạc nhất của mọi thời đại"; "Một nhân cách lớn".

Có thiệt vậy không?

Những Điều Tận Mắt
Khoảng đầu năm 1983, ông Giáp đến thăm một trường đại học. Khi đó ông đã thôi chức Bộ trưởng quốc phòng, đang là Trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Tôi thấy ông vẫn mặc quân phục, mang quân hàm đại tướng. Bọn sinh viên chúng tôi đang ở tuổi trên dưới 20, rất ngưỡng mộ ông, kéo đến nghe ông nói chuyện. Không ngờ những bài phát biểu của ông rất nhạt, chung chung, vô thưởng vô phạt, với những sáo ngữ mòn cũ, giáo điều thường thấy trong các nghị quyết của chi bộ, chi đoàn như là Đảng ta, nhân dân ta anh hùng, quân đội ta anh dũng, thực hiện di chúc thiêng liêng của Bác Hồ, quyết tâm, vượt mức, lập thành tích, quán triệt, phát huy,…

Không có gì sắc sảo, mới lạ. Màng nhĩ của tụi tôi bấy giờ đã khá quen với những ý tưởng và ngôn từ của các giáo sư đại học thời Tây còn lại, hoặc những vị cỡ như Bùi Tín nói về thời sự quốc tế, Trần Quốc Vượng nói về Hà nội học, hay Xuân Diệu bình thơ. Vì thế nghe tướng Giáp nói xong chúng tôi thất vọng quá. Sau này tôi lại thấy mỗi khi đi thăm các cơ sở, ông Giáp đều bắt đầu lời phát biểu kiểu như: Thay mặt đ/c Lê Duẩn uỷ viên BCT tổng bí thư…, đ/c Trường Chinh ủy viên BCT chủ tịch hội đồng nhà nước…, đ/c Phạm Văn Đồng ủy viên BCT, chủ tịch hội đồng chính phủ, và các đ/c khác trong trung ương… tôi xin gởi lời thăm đến các đồng chí…

Thì ra ở đâu ông cũng ăn nói na ná như nhau.
Ngày 30 – 4 -1995, kỷ niệm 20 năm ngày giải phóng miền Nam. Năm chẵn, nên tổ chức rất hoành tráng ở t/p HCM. Truyền hình Mỹ chiếu trực tiếp lễ duyệt binh, có phần phỏng vấn tướng Giáp và tướng Westmoreland. Ý họ là để cho hai vị tướng đã từng đối đầu ở chiến trường có dịp trò chuyện với nhau. Sau lời phát biểu khá khiêm tốn của tướng Westmoreland, đến lượt tướng Giáp – ông nói đại ý rằng chúng tôi vô cùng tự hào vì Việt Nam là một thuộc địa nhỏ bé nhưng đã đánh thắng được hai đế quốc đầu sỏ là thực dân Pháp và đế quốc Mỹ.
Một thiên tài quân sự, một chính khách lỗi lạc, một nhà ngoại giao tài ba, mà lại phát biểu như vậy sao. Tôi tự hỏi.

Từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò
Ngày 22-11-1944, ông Giáp cùng với 34 chiến sĩ đã qua một cơn chuyển dạ đớn đau, rồi sinh hạ QĐNDVN duới gốc đa Tân Trào, tỉnh Tuyên Quang. Đến tháng 5-1948, tức 3 năm rưỡi sau, ông Giáp được ông Hồ Chí Minh phong cho chức Đại tướng. Khi ấy ông Giáp mới 37 tuổi. Riêng điều này thì "huyền thoại" thiệt. Cả thế giới đến nay mới xuất hiện hai đại tướng được phong vượt 17 cấp bậc như thế! Ông Giáp ở Bắc Việt Nam, và Kim Jong-un ở Bắc Triều Tiên! Từ đó người ta gọi ông Giáp là "tướng Giáp". Ông giữ những chức vụ: Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Quân ủy Trung ương, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng tư lệnh QĐNDVN cho đến năm 1982.

Vào cuối thâp kỷ 60, trước và sau khi ông Hồ chết, nội bộ ĐCSVN xảy ra "Vụ Án Xét Lại Chống Đảng" do Lê Duẩn và Lê Đức Thọ phát động. Ông Giáp trở thành đích ngắm của vụ án, nhưng ông lại không bị đánh trực tiếp, mà đòn hiểm lại nhằm vào những người đồng chí trung thành của ông ở chiến dịch Điện Biên Phủ: Thượng tướng Chu Văn Tấn tư lệnh Quân Khu Việt Bắc, Thiếu tướng Đặng Kim Giang chỉ huy hệ thống hậu cần, Tướng Lê Liêm một ủy viên đảng ủy, Trung tướng Trần Độ chỉ huy đại đoàn 312, mũi tấn công chính vào sở chỉ huy Pháp, và là người tiếp nhận sự đầu hàng của tướng de Castries, Đại tá Đỗ Đức Kiên cục trưởng tác chiến, Đại tá Phạm Quế Dương, ông Hoàng Minh Chính , và nhiều người khác nữa. Tất cả bị vu cáo cùng một tội "chống đảng, xét lại, làm gián điệp cho nước ngoài". Điều trớ trêu là tướng Giáp biết rõ là ngụy tạo, nhưng ông không bao giờ mở miệng, hoặc có một động thái nào để bảo vệ, hay giúp đỡ những người bạn cũ đang bị đối xử rất tàn ác.

Đại hội Đảng V – 1982, ông Giáp bị đưa ra khỏi bộ chính trị, mất chức bộ trưởng bộ quốc phòng, và được "phân công" về làm trưởng ban sinh đẻ có kế hoạch. Thực chất đây là một vụ cách chức, hay nói trắng ra là ông Lê Đức Thọ đã hạ nhục ông Giáp một cách không thương tiếc. Ông Giáp vẫn không có một hành động gì dù nhỏ nhất như là từ chức, xin về hưu để tỏ thái độ, và giữ gìn khí tiết của một người làm tướng. Ông tỏ ra như một đứa con ngoan vâng lời cha mẹ. Dân Bắc kỳ phải ngán ngẩm mà than rằng:

"Xưa làm bộ trưởng quốc phòng
Nay làm bộ trưởng đặt vòng tránh thai"


Hay:
"Bác Hồ nằm ở trong lăng,
Nhiều hôm bác bỗng nghiến răng, giật mình
Rằng giờ chúng nó linh tinh
Tuổi tên của mình chúng ném xuống ao
Ao nào thì có ra ao
Cái tròn cái méo, cái nào cũng sâu
Hỏi rằng tướng Giáp đi đâu
Dạ thưa tướng Giáp… lo khâu đặt vòng."

Một bài vè khác thì chẳng còn úp mở gì:
"Ngày xưa đại tướng cầm quân
Ngày nay đại tướng cầm quần chị em
Ngày xưa đại tướng công đồn
Ngày nay đại tướng công l… chị em."

Khi hai ông Duẩn – Thọ về thăm Bác, tưởng rằng vòng kim cô trên đầu tướng Giáp sẽ được gỡ ra. Nhưng không, nó còn bị siết chặt hơn bởi một cặp bài trùng mới: Đỗ Mười – Lê Đức Anh (được biết đến là MA, viết tắt từ Mười – Anh). MA đã giáng một đòn trực tiếp vào ông Giáp với một bản cáo trạng gồm 8 tội danh:
1. Ông Giáp từng là con nuôi của chánh sở mật thám Đông Dương, Louis Marty.
2. Ông Giáp cầm đầu vụ án Xét Lại Chống Đảng từ năm 1957-1958.
3. Ông Giáp bán bí mật quân sự cho Đại Sứ Liên Xô Serbakov.
4. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, ông Giáp hèn nhát, sợ chết quanh quẩn trong hầm, không dám ra ngoài. Nguyễn Chí Thanh mới chính là người chỉ huy chiến dịch.
5. Ông Giáp nhận định tình hình kém, vội vàng giải tán 80.000 quân, để khi Pháp – Mỹ trở lại thì không có đủ quân chống đỡ.
6. Tết Mậu Thân 1968 ông Giáp nhận định rằng Mỹ sẽ dùng bom nguyên tử đánh Hà Nội, nên xin đi nghỉ ở Moscow để lánh nạn.
7. Ông Giáp hèn nhát, sợ B-52 của Mỹ rải thảm, nên không đi B
(chưa bao giờ dám đặt chân vào chiến trường miền Nam trước 1975).
8. Ông Giáp đã có vợ, nhưng lại ăn nằm với một phụ nữ đã có chồng. Cô này đến nhà riêng ông Giáp dạy đàn piano.


Đỗ Mười kết luận phải khai trừ ông Giáp ra khỏi ĐCSVN. Lê Đức Anh nương tay hơn, chỉ gạt ông Giáp ra khỏi ghế "ủy viên trung ương" – một vị trí an ủi mà thời Lê Duẩn – Lê Đức Thọ vẫn còn bố thí cho ông.

Người ta ví von rằng trận đòn mà MA đánh ông Giáp cũng giống như trận đòn mà Đặng Trần Thường đánh Ngô Thì Nhậm ở Quốc Tử Giám cách đây 200 năm. MA đánh Giáp bằng những tội danh rất hiểm. Thường đánh Nhậm bằng roi tẩm thuốc độc. Nhậm đau lắm nhưng vẫn đối đáp khí khái, ăn miếng trả miếng, bảo vệ được thanh danh, để lại tiếng thơm cho đời sau. Còn tướng Giáp thì vẫn nhũn như con chi chi, nhịn nhục, không dám nói năng gì. Có phải lòng kiêu hãnh của một vị đại tướng đã thành gỗ đá, không bao giờ bị thương tổn?

Có người lại bảo ông Giáp phục kích, chờ cơ hội. Đúng, ông Giáp đã chờ cho đến khi cả hai ông MA đã vào tuổi 90, sức khỏe cạn, quyền lực hết, không còn ảnh hưởng nhiều đến phong cảnh chính trị Việt nam thì ông Giáp mới dám mở miệng để đòi lại danh dự. Tiếc thay, tướng Giáp chỉ đòi công lý cho cá nhân ông, còn những đồng đội trung thành của ông ở Điện Biên Phủ ông chẳng hề bận tâm.

Dân Hà nội thì đàm tiếu rằng con đường tòng chính của tướng Giáp đầy gian nan vất vả, ông đã hành quân qua một chặng đường dài từ Cây Đa Tân Trào đến Cây Đa Nhà Bò. Cây Đa Nhà Bò là một trạm hộ sinh nằm trên phố Lò Đúc, Hà Nội, dành cho những phụ nữ thuộc giới bình dân, chuyên đỡ đẻ, nạo phá thai, khám phụ khoa, thông vòi trứng, hút điều hòa kinh nguyệt, điều trị rong kinh huyết trắng. (Ngẫm ra, dân Hà Thành thâm thiệt!)

Viết về tướng Giáp mà không phân tích một trận đánh do ông chỉ huy, thì rất là thiếu sót. Tôi quyết định chọn trận đánh cuối cùng trong cuộc đời cầm quân của ông. Đó là một cuộc chiến ngắn ngủi nhưng đẫm máu giữa hai người anh em cùng ý thức hệ cộng sản: Quân Đội Nhân Dân Việt Nam (QĐND) do tướng Giáp chỉ huy và Hồng Quân Trung Hoa (HQTH) do tướng Dương Đắc Chí là tư lệnh.

Cuộc chiến Việt – Trung tháng 2-1979.
QĐND hoàn toàn bị bất ngờ:
Để trừng phạt Việt nam, HQTH đã sử dụng 10 quân đoàn chủ lực và một số sư đoàn độc lập, bao gồm 300.000 binh sĩ, 550 xe tăng, 480 khẩu pháo, 1.260 súng cối, hỏa tiễn, chưa kể hơn 200 tàu chiến của hạm đội Nam Hải và 1.700 máy bay phía sau.

Các nguồn tin phương Tây nhận định rằng HQTH đã mất từ 60 đến 90 ngày để đưa quân vào các vị trí tập kết sẵn sàng cho các mũi tấn công. Chỉ cần là nhân viên quân báo cấp trung đoàn, hay các tổ trinh sát đặc biệt cũng nhận ra được ý đồ, và ngày giờ khai hỏa của đối phương, nói gì đến tình báo chiến lược.

Mờ sáng ngày 17-2-1979, HQTH tấn công trên toàn tuyến biên giới dài 1.400 Km, trải rộng trong một khoảng không gian gồm 7 tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn và Quảng Ninh.

Việt nam hoàn toàn không hay biết gì. Khi HQTH tràn qua biên giới, thì thủ tướng Phạm Văn Đồng và đại tướng Văn Tiến Dũng, tổng tham mưu trưởng, đang thăm viếng xứ Cao Miên. Dân chúng không được thông báo trước, trẻ em, người già, và phụ nữ có thai, không kịp di tản ra khỏi vùng chiến địa. HQTH đã tạo ra được một yếu tố bất ngờ đến ngọan mục. Không hiểu tướng Giáp biện minh thế nào cho việc không hay biết gì về giờ nổ súng của đối phương.

Thất bại về tình báo và nhận định tình hình:
Tháng 11-1978, Đặng Tiểu Bình công du Thái Lan , Malaysia và Singapore. Đặng nói với các vị chủ nhà rằng Trung Quốc sẽ dùng vũ lực nếu Việt Nam tấn công Campuchia. Đặng đã gọi Việt Nam là những tên du côn của phương Đông, phải dạy cho chúng một bài học. Có lẽ vì lời của Đặng quá khiếm nhã, báo chí Trung Quốc chỉ dùng nửa sau của câu nói.

Ngày 28-1-1979, Đặng thăm Mỹ, và tuyên bố
"Chúng tôi không thể cho phép Việt Nam gây rối loạn khắp nơi", " Trung Quốc kiên định đứng về phía Campuchia phản đối bọn xâm lược Việt Nam". Giọng điệu chiến tranh của Đặng rất rõ. Báo chí Mỹ loan tải sớm muộn gì thì một cuộc chiến giữa hai nước cộng sản sẽ nổ ra.

Sau 3 ngày thăm Mỹ, Đặng đến Nhật. Tại đây, Đặng vẫn giọng điệu hung hăng
"để trừng phạt Việt nam, dù có gặp những nguy hiểm cũng phải hành động"; "không trừng phạt kẻ xâm lược, sẽ tạo ra những nguy hiểm phản ứng dây chuyền", "Đối phó với loại người vô ơn như thế, không có những bài học cần thiết thì e rằng các hình thức khác đều không có hiệu quả". Các nhà ngoại giao Nhật ngạc nhiên vì lời lẽ và thái độ phi ngoại giao của Đặng.

Cũng khoảng thời gian này, TASS – hãng thông tấn của Liên Xô cũng đưa tin một lực lượng rất lớn quân đội Trung Quốc đang áp sát biên giới Việt–Trung.

Từ Nhật về, Đặng chỉ thị tấn công Việt Nam vào ngày 17-2. Thời gian của chiến dịch không dài hơn cuộc chiến một tháng với Ấn Độ (1962); không gian của cuộc chiến sẽ tiến hành một cách hạn chế, trong phạm vi trên duới 50 cây số từ biên giới.

Bằng chứng Đặng sẽ trừng phạt Việt nam đã rõ như ban ngày, nhưng không hiểu vì sao phía Việt Nam tin rằng Trung Quốc là một nước XHCN anh em, và nhân dân Trung Quốc yêu chuộng hòa bình, sẽ không ủng hộ chiến tranh. Trung Quốc sẽ không tấn công, hoặc nếu có thì chỉ từ cấp sư đoàn đổ lại.

Thiếu tin tình báo, nhận định và phân tích tình hình sai, không nắm được thời điểm nổ súng, thời gian, không gian, và quy mô chiến dịch của đối phương, đã dẫn đến việc tướng Giáp không hề bố trí những quân đoàn chủ lực dọc biên giới. Tất cả phó thác cho dân quân tự vệ, bộ đội địa phương, và một vài trung đoàn độc lập.

Một thất bại về chiến thuật:
Kế hoạch hành quân của Trung Quốc chia làm 3 giai đoạn.
Giai đoạn 1: từ 17-2 đến 25-2, phá vỡ hàng phòng thủ đầu tiên của Việt Nam, làm chủ thị xã Cao Bằng, Lào Cai, và hai thị trấn Cam Đường và Đồng Đăng, để mở đường cho cuộc tấn công vào Lạng Sơn.
Giai đoạn 2: từ 26-2 đến 5-3, chiếm được thành phố Lạng Sơn, và hai thị trấn Sa Pa va Phong Thổ.
Giai đoạn 3: từ 5-3 đến 16-3, bình định và phá hủy các căn cứ quân sự ở khu vực biên giới, trước khi rút về.

Ngày 21 tháng 2, khi chiến dịch đang diễn ra rất ác liệt, tuần dương hạm Sverdlov và khu trục hạm Krivak của Liên Xô đã tiến về bờ biển Việt nam. Cầu hàng không của Liên Xô giúp Việt Nam chở quân và vũ khí ra Bắc. Hai chuyến bay đặc biệt của Liên Xô và Bulgaria đã chở vũ khí tới Hà Nội.
Trước tình hình đó ngày 23-2-1979, Đặng sợ Liên Xô nhúng tay, nên lên tiếng về "cuộc chiến sẽ giới hạn trong vòng 50 km , và sẽ rút quân trong 10 ngày tới. Rõ ràng Trung Quốc không có ý định tấn công vào Hà nội. Họ chỉ ba hoa rằng
"ăn sáng ở Lạng Sơn và ăn tối ở Hà Nội."

Việt Nam lại tin rằng cuộc chiến sẽ kéo dài, và Hà nội sẽ bị tấn công. Từ nhận định sai lầm này mà dẫn đến việc dồn hết công sức, và tâm trí vào việc xây dựng "Phòng Tuyến Sông Cầu", để cố thủ Hà nôi. 7 tỉnh biên giới gần như bị bỏ ngỏ, phải tự chiến đấu trong tuyệt vọng, tự gánh vác lấy sức nặng của cuộc chiến, không được chi viện. Trận chiến tại Đồng Đăng là một thí dụ:

Đồng Đăng là một thị xã nằm sát biên giới Việt-Trung, cách thành phố Lạng Sơn 14 Km về phía Đông Nam. Trận đánh bắt đầu sáng 17-2 và là trận ác liệt nhất. Đây là trận địa phòng thủ của Trung đoàn 12 Tây Sơn, thuộc sư đoàn Sao Vàng, QĐND. Phía Trung Quốc dùng 2 sư đoàn bộ binh, 1 trung đoàn xe tăng, và chi viện của 6 trung đoàn pháo binh, (Tương quan lực lượng là khoảng 10 đánh 1). Pháo đài Đồng Đăng tạo thế chân kiềng bảo vệ phía Tây Nam thị xã, (Pháo đài này được Pháp xây dựng rất kiên cố, vì ở đây đã diễn ra khá nhiều va chạm đẫm máu giữa Pháp và nhà Thanh trước đây). Việt nam chỉ có 2 tiểu đoàn trấn giữ, bị Trung Quốc bao vây và tấn công dồn dập ngay từ đầu với lực lượng cấp sư đoàn. Lực lượng phòng thủ không hề được chi viện nhưng đã chiến đấu đến những người cuối cùng, trụ được 22 ngày đêm. Cuối cùng HQTH cũng đã làm chủ được khu vực bên ngoài Pháo Đài, nhưng Trung Quốc không gọi được đối phương cố thủ bên trong ra đầu hàng. Trung Quốc chở bộc phá tới đánh sập cửa chính, dùng súng phun lửa, thả lựu đạn, phun chất độc vào các lỗ thông hơi làm thiệt mạng cả thương binh cũng như dân quanh vùng đến đây lánh nạn. Khi chiếm được Pháo đài Đồng Đăng, HQTH đã dùng 10 tấn thuốc nổ để phá hệ thống cố thủ này.

Việt Nam lúc đó đã có ít nhất 5 sư đoàn đang ở miền Bắc, trong đó có sư 308 – là một sư đoàn thiện chiến đã từng đánh ở Điện Biên Phủ và Khe Sanh. Nếu 5 sư đoàn này được tham chiến vào buổi bình minh của cuộc chiến thì tình thế sẽ hoàn toàn có lợi cho phía QĐND. HQTH không thể tiến sâu vào lãnh thổ VN, không thể làm chủ được thời gian, không thể đạt được những những mục tiêu như họ muốn, và họ sẽ không có lý do gì để tuyên bố là "Chiến Thắng". Đây là một sai lầm mang tính chiến thuật mà tướng Giáp và bộ tổng tham mưu của QĐND phải chịu trách nhiệm.

Một kết thúc mập mờ dẫn đến một sai lầm chiến lược:
Sau những ngày chiến đấu ngoan cường nhưng đơn độc của sư đoàn Sao Vàng trước một đối phương áp đảo về số lượng và hỏa lực, ngày 4-3-1979, Lạng Sơn thất thủ.

Sáng 5-3, Trung Quốc tuyên bố đã hoàn thành mục tiêu của cuộc trừng phạt, chiến thắng vẻ vang, và quyết định rút quân.
Cùng ngày 5-3, Việt nam phát lệnh "Tổng Động Viên". Những quân đoàn chủ lực của QĐND có xe tăng, pháo binh, và không quân từ chiến trường Campuchia trở về, cùng với một địa hình muôn vàn hiểm trở của núi rừng miền Bắc, Việt Nam đã vào vị trí vây hãm HQTH. Tất cả đã sẵn sàng cho cuộc phản kích, mà phần thắng sẽ thuộc về tay QĐND.

Nhưng tiếc thay, Việt Nam lại tuyên bố "Thiện Chí Hòa Bình", rằng truyền thống ông cha ta… rằng lòng cao thượng… rằng lòng nhân đạo của dân tộc ta …, Việt Nam sẽ để cho HQTH rút quân an toàn.

Sự thực trên đường rút quân, HQTH vẫn chém giết, vơ vét, và phá hoại. Vụ thảm sát ngày 9 tháng 3 tại Đổng Chú, huyện Hòa An, Cao Bằng là một thí dụ. HQTH đã dùng búa, dao giết 43 người, gồm 21 phụ nữ trong đó có 7 phụ nữ đang mang thai, 20 trẻ em, và 2 người đàn ông, rồi ném xác xuống giếng hoặc chặt ra nhiều khúc vứt hai bên bờ suối. HQTH có đủ thời gian và không gian để phá hoại hạ tầng cơ sở, chiếm giữ những điểm cao quan trọng, và gài lại hàng triệu trái mìn cá nhân trên đường rút lui.

QĐND đã không tổ chức những trận đánh cấp tập, vu hồi, tạt sườn trên đường rút quân của HQTH. Kết thúc cuộc chiến một cách mập mờ, nửa vời, đánh rắn giữa khúc, nửa nạc nửa mỡ. HQTH coi thường ý chí và kinh nghiệm chiến đấu của QĐND, và còn mỉa mai rằng chưa được "vuốt râu cọp". Họ không tôn trọng danh tiếng của một đạo quân thiện chiến.

Quyết định "Thiện Chí Hòa Bình" của Việt Nam hình như là một thái độ thủ hòa, nhưng hòa vào một thế vô cùng bất lợi. Từ đó, trong bất kỳ những cuộc thương thảo nào về biên giới, Trung Quốc luôn ở thế kẻ cả, áp đảo, và lấn lướt mà chúng ta thấy rất rõ. Đây là hệ luỵ từ sai lầm mang tính chiến lược do tướng Giáp và Bộ tổng tham mưu gây ra.

"Anh Đặng"

Đặng Tiểu Bình là người đã phát động cuộc chiến đẫm máu, man rợ, gây ra bao nhiêu đau thương và dẫn đến những hệ lụy cho đất nước Việt Nam nhiều năm sau đó. Đặng đã từng gọi lãnh đạo của Việt Nam là "những thằng du côn của phương Đông", "lũ tiểu bá", "đám vô ơn, bội bạc". Thế mà 10 năm sau, khi những vết thương trên thân mình Tổ Quốc vẫn còn đang chảy máu, ngày 3-9-1990, ba ông Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười và Phạm Văn Đồng bí mật đến Thành Đô, tỉnh Tứ Xuyên, hy vọng được yết kiến Đặng Tiểu Bình. Đặng không gặp, để cho hai đàn em Giang Trạch Dân và Lý Bằng tiếp. Cả ba ông Linh, Mười, Đồng rất tiếc vì đã không gặp được "anh Đặng". Ông Võ Văn Kiệt ở nhà cũng tiếc hùi hụi, phàn nàn rằng "nếu có anh Đặng, thì anh Tô (Đồng) mới nên đi. "

Kẻ tử thù của của nhân dân Việt nam, nay được các nhà lãnh đạo Việt Nam gọi bằng "ANH" thân thiết qúa.

Cũng khoảng thời gian đó, tướng Giáp đến thăm Trung Quốc, và xin được gặp tướng Dương Đắc Chí – tổng tư lệnh trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam năm 1979. Nhưng Dương tướng quân từ chối, nói:
"Đời nào tôi lại gặp ông ta. Mộ của các cán bộ chiến sĩ vẫn còn chưa xanh cỏ!"
Chỉ vài thông tin để các bạn thấy được cái gọi là "Đại trí, Đại nhân, Đại dũng" của những lãnh tụ cộng sản Việt Nam, trong đó có Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.

(Trong bài này tôi có tham khảo tài liệu của các tác giả Bùi Tín, Trần Quang Cơ, Trần Vũ, và Bharat Raksha và trang mạng Talawas. Tôi cảm ơn các tác giả kể trên)
.

Trần Hồng Tâm